Chiến tranh Triều Tiên diễn ra đầy khốc liệt, khi vào giữa năm 1950 quân đội của CHDCND Triều Tiên tấn công vũ bão đẩy quân Hàn Quốc đến sát bờ biển, và rồi chỉ vài tháng sau, quân Hàn Quốc và đồng minh phản công như chớp, đẩy binh sĩ của Triều Tiên lên tận biên giới với Trung Quốc.
Năm 1950, khi cộng đồng quốc tế nỗ lực tái thiết sau Thế chiến II, một cuộc xung đột mới nổ ra ở vùng Đông Bắc Á. Cuộc chiến Triều Tiên được đánh dấu bằng những bước ngoặt bất ngờ của lịch sử và số thương vong khổng lồ. Theo các số liệu còn gây tranh cãi ở phương Tây, ít nhất hai triệu dân thường và 1,5 triệu lính Triều Tiên thiệt mạng; số lính Mỹ chết trong trận chiến là 30.000, còn quân đội Hàn Quốc mất 400.000 người. Những số liệu khác, từ tài liệu của Triều Tiên, cho rằng có 405.490 quân Mỹ chết.
Trong phần lớn thời gian chiến tranh diễn ra, hai bên từng tìm cách đàm phán hòa bình vài lần. Khi thỏa thuận ngừng bắn được ký vào ngày 27/7/1953, không ai có thể tưởng tượng được rằng tròn 60 năm sau đó, bán đảo Triều Tiên, về danh nghĩa, vẫn ở trong tình trạng chiến tranh. Hai miền không đạt được hiệp ước hòa bình và khu vực biên giới vẫn dày đặc mìn, pháo và binh sĩ.
Cuộc chiến Triều Tiên khởi nguồn từ lịch sử phức tạp trên bán đảo và rộng hơn nữa là trong khu vực. Trung Quốc, Nhật và Liên Xô đều muốn có ảnh hưởng ở nơi này.
Sau khi đánh bại quân Thanh trong Chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), lực lượng Nhật Bản lưu lại và chiếm đóng những phần đất quan trọng chiến lược của Triều Tiên. Mười năm sau đó, người Nhật đánh bại hải quân Đế quốc Nga trong Chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905), đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc. Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên, mở rộng tầm kiểm soát của họ lên các cấp chính quyền địa phương bằng vũ lực, và cuối cùng sát nhập Triều Tiên vào Nhật Bản trong tháng 8 năm 1910 cho đến khi Thế chiến II kết thúc. Trước khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện năm 1945, Liên Xô đưa quân vào bán đảo Triều Tiên. Sau đó, Liên Xô và Mỹ đồng ý chia bán đảo này thành hai phần, với đường phân cách là vĩ tuyến 38. Liên Xô tiếp quản miền bắc còn Mỹ quản lý miền nam.
Liên Xô ủng hộ chính phủ của của Chủ tịch Kim Nhật Thành ở miền bắc. Ở miền nam ông Syungman Rhee đắc cử tổng thống. Quân đội Mỹ và Liên Xô rút khỏi bán đảo Triều Tiên trước năm 1949.
Quân đội Triều Tiên được Liên Xô huấn luyện và trang bị tốt. Họ có 135.000 binh sĩ, xe tăng và pháo. Ngược lại, lực lượng Hàn Quốc chỉ có 98.000. Chính quyền cả hai miền đều muốn thống nhất bán đảo.
Theo các tài liệu từ phía Mỹ, rạng sáng ngày 25/6/1950, quân đội Triều Tiên tràn sang bên kia vĩ tuyến 38. Mỹ vội vàng huy động binh sĩ của họ ở các căn cứ tại Nhật Bản. Tuy nhiên, lực lượng Mỹ và Hàn Quốc gặp khó khăn trong các cuộc giao tranh ban đầu với quân Triều Tiên, liên tục rút lui. Cuối cùng, họ lui về cố thủ ở thành phố cảng Busan, phía đông nam bán đảo, trong khi Mỹ kêu gọi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc giúp đỡ.
Theo các tài liệu từ phía Triều Tiên, rạng sáng ngày 25 tháng 6 năm 1950, Mỹ xúi giục quân Nam Triều Tiên bất ngờ gây chiến tranh chống nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, khoe rằng "chiến tranh sẽ kết thúc trong 72 tiếng". Chấp hành mệnh lệnh của Chủ tịch Kim Nhật Thành quân đội Triều Tiên đã tiến công với khí thế như sóng dữ, tiến vào Seoul sáng 28/6.
Hội đồng Bảo an (HĐBA) thông qua một nghị quyết kêu gọi tất cả các thành viên giúp Hàn Quốc chống Triều Tiên.
14 quốc gia, bao gồm Anh, Australia, Bỉ, Canada, Colombia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, New Zealand, Philippines, Nam Phi, Thái Lan và Thổ Nhĩ Kỳ cam kết đưa quân tới bán đảo ở Đông Bắc Á. Binh sĩ của Mỹ, Anh, Canada và Australia chiếm đa số trong 260.000 quân nhân tham chiến.
Trong khi chờ viện binh, lực lượng ít ỏi ở Hàn Quốc cố gắng giữ Busan. Đường tiếp tế của Triều Tiên cũng bị kéo căng một cách nguy hiểm do quân của họ tiến quá nhanh. Nhiều lúc tiếp tế không theo kịp tốc độ tiến quân.
Ở phía nam bán đảo, trước tình thế nguy ngập, chỉ huy của quân đoàn số 8 của Mỹ, tướng Walton Walker, đã lên tiếng để động viên tinh thần binh sĩ không rút lui nữa. Kết quả là binh sĩ Hàn Quốc cùng 4 sư đoàn Mỹ cầm cự được khoảng 6 tuần. Tuy nhiên, đây cũng là chiến dịch mà quân Mỹ hứng chịu tổn thất lớn nhất về người trong suốt chiến tranh liên Triều. Họ đã mua thời gian bằng máu.
Trong khi quân đội Triều Tiên bao vây Busan, chỉ huy lực lượng Liên Hợp Quốc - tướng Douglas MacArthur - toan tính đảo ngược tình thế chiến tranh. Ngày 15/9/1950, ông phát động một chiến dịch mạo hiểm nhằm vào thành phố cảng Inchon ở phía tây. Mục đích là cắt đứt đường hậu cần và liên lạc của Triều Tiên, khiến họ bị mắc kẹt giữa Inchon và Busan. Cùng lúc đó, quân đoàn số 8 của Mỹ giữ chặt Busan. Binh sĩ Triều Tiên bắt đầu lui quân. Đến ngày 25/9, lực lượng liên quân đã giành lại Seoul.
Đồng minh đáng lẽ dừng lại ở vĩ tuyến 38. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Harry Truman lại muốn thống nhất bán đảo để lập một chính phủ ủng hộ phương Tây. Tướng MacArthur liền ra lệnh binh sĩ đuổi theo quân Triều Tiên qua biên giới. Thế nhưng, vì lo ngại chiến tranh mở rộng nên Truman yêu cầu MacArthur không xâm phạm Trung Quốc. Bắc Kinh cũng cảnh báo họ sẽ tham chiến nếu quân đồng minh tràn sang Triều Tiên.
Hôm 15/10, tại đảo Wake Island ở Thái Bình Dương, tướng MacArthur và Tổng thống Truman cùng bàn bạc tương lai chiến tranh. MacArthur tin quân đồng minh sẽ thành công sớm trong chiến dịch Triều Tiên và ông không e ngại việc Trung Quốc can thiệp.
10 ngày sau, quân đội Trung Quốc tham chiến. Sau đó tướng MacArthur ra lệnh tiến hành chiến dịch dứt khoát vào ngày 24/11, đưa binh sĩ tới tận sông Áp Lục (Yalu), nơi đánh dấu biên giới giữa Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc. Ông hy vọng rằng chiến dịch này sẽ giúp kết thúc chiến tranh và cho phép binh sĩ “về nhà trước Giáng sinh”. Tuy nhiên, tình thế nhanh chóng đảo ngược vào hôm sau, khi khoảng 180.000 "chí nguyện quân" Trung Quốc phản công. Quá choáng váng, MacArthur muối mặt ra lệnh rút quân trong điều kiện thời tiết dưới 0 độ, đưa binh sĩ về sau vĩ tuyến 38 trước thời điểm cuối năm.
Khi binh sĩ Trung Quốc tiến hành một chiến dịch mới, lực lượng đồng minh rút lui tới phía nam Seoul vào tháng 1/1951. Tại đây, nhờ vị thế sân nhà, binh sĩ Liên Hợp Quốc phòng vệ tốt hơn. Sau vài tháng chiến đấu, khu vực vĩ tuyến 38 bình ổn trở lại.
Lúc này Tổng thống Truman tuyên bố Liên Hợp Quốc sẵn sàng ký hiệp ước đình chiến. Tuy nhiên, tướng MacArthur không muốn nhượng bộ. Ông công khai quan điểm mở rộng chiến tranh với Trung Quốc và qua mặt tổng thống, đệ trình ý kiến lên quốc hội. Truman sa thải tướng MacArthur vì bất tuân vào tháng 4/1951. MacArthur được thay thế bởi tướng Matthew Ridway.
Các cuộc đàm phán về ngừng bắn bắt đầu vào ngày 10/7/1951. Tuy nhiên, tiến trình này liên tục rơi vào thế bế tắc vì những vấn đề như trao đổi tù nhân hay vị trí của ranh giới tạm thời. Cuối cùng hai bên cũng ký thỏa ước đình chiến, song hoàn toàn do những tác động từ bên ngoài.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra giải pháp để kết thúc cuộc xung đột. Với việc Liên Hiệp Quốc chấp thuận lời đề nghị ngừng bắn của Ấn Độ.
Tháng 1/1953 tổng thống Dwight D. Eisenhower tuyên bố ông sẵn sàng dùng vũ khí hạt nhân để chấm dứt xung đột ở bán đảo này. Tháng 3/1953, nhà lãnh đạo Joseph Stalin của Liên Xô qua đời.
Ngày 27/7/1953, một thỏa thuận ngừng bắn được ký tại Bàn Môn Điếm (một ngôi làng ở tỉnh Gyeonggi) và trở thành đường ranh giới tạm thời được xác định là biên giới mới giữa hai nước. Lúc đó, thỏa thuận đình chiến chỉ được xem là tạm thời cho tới khi "hòa bình được thiết lập lại".
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 nhằm mục đích ban đầu để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận. Từ đó tới nay, biên giới Triều Tiên vẫn là một điểm nóng thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận quốc tế.